Laravel Beauty: Tìm hiểu về Service container
Bài đăng này đã không được cập nhật trong 3 năm
Index
- Laravel Beauty: Recipes & Best Practices
- Laravel Beauty: Tìm hiểu về Service Container
- Laravel Beauty: Tìm hiểu về Service Provider
- Laravel Beauty: Tìm hiểu về Facade
- Laravel Beauty: Tìm hiểu về Contract
Mở đầu
Trong bài viết lần trước, mình đã giới thiệu qua về Laravel, cũng như một vài Best Practices mà mình hay sử dụng. Từ bài viết này, mình sẽ tập trung giới thiệu và giải thích về những thành phần core của Laravel Framework, hy vọng có thể giúp các bạn hiểu hơn về cách mà Laravel hoạt động.
Đầu tiên sẽ là về một thành phần được coi là "trái tim" của Laravel, Service Container, thứ mà có thể các bạn đang dùng rất nhiều nhưng lại không biết là đang dùng ở đâu ^^!
Nếu các bạn đã từng làm việc với Laravel 4.2 mà chưa tìm hiểu nhiều về Laravel 5, thì bạn sẽ thấy khái niệm Service Container rất là mới mẻ. Thế nhưng thực chất nó đã tồn tại từ trước đó rồi, ở phiên bản 4.2 đổ về trước thì nó được người ta gọi dưới cái tên "Inversion of Control Container (IoC Container)". Nếu các bạn để ý thì từ phiên bản 5, trên document của Laravel, phần giới thiệu về IoC Container biến mất, và thay vào đó là Service Container.
Do đó, trước tiên hãy nói một chút về Inversion of Control nhé.
Dependency Injection và Inversion of Control
Cũng có ý kiến cho rằng Inversion of Control và Dependency Injection là một, và chúng chỉ là 2 cái tên được dùng cho một mục đích. Tuy nhiên, phần nhiều thì cho rằng Dependency Injection là một phần nhỏ của Inversion of Control, và nó là một trong những giải pháp để thực hiện Inversion of Control. Nhìn chung ta có thể hiểu đơn giản như sau:
- Dependency Injection: Mình đã từng đề cập ở bài viết trước. Nếu một Class A hoạt động phụ thuộc vào một vài Class khác, thì thay vì khởi tạo các instance của các Class kia bên trong Class A, ta sẽ inject những instance đó vào thông qua constructor hay setter. Những instance của các Class mà Class A cần để hoạt động đó được gọi là dependency. Ví dụ:
class Monitor {}
class Keyboard {}
class Computer
{
protected $monitor;
protected $keyboard;
public function __construct($monitor, $keyboard)
{
$this->monitor = $monitor;
$this->keyboard = $keyboard;
}
}
$computer = new Computer(new Monitor(), new Keyboard());
Như ở ví dụ trên ta có thể thấy class Computer
cần các dependency là instance của Monitor
và Keyboard
. Thay vì khởi tạo các dependency này bên trong constructor của class Computer
, ta sẽ inject chúng vào khi gọi new Computer
.
- Inversion of Control: Dưới đây là định nghĩa về IoC trên Wikipedia:
In software engineering, inversion of control (IoC) describes a design in which custom-written portions of a computer program receive the flow of control from a generic, reusable library. A software architecture with this design inverts control as compared to traditional procedural programming: in traditional programming, the custom code that expresses the purpose of the program calls into reusable libraries to take care of generic tasks, but with inversion of control, it is the reusable code that calls into the custom, or task-specific, code.
Trông có vẻ lằng nhằng và khó hiểu phải không? IoC là một kỹ thuật trong lập trình làm "đảo ngược" flow của những xử lý truyền thống. Bình thường thì đoạn xử lý logic của ta sẽ gọi đến những class, library mà nó cần dùng, thế nhưng, với IoC thì ta sẽ gửi cho những đoạn xử lý logic đó những thứ mà nó cần. Hay nói cách khác: Đừng cố gọi khắp nơi để tạo ra những thứ mà bạn cần (dependency), chúng tôi sẽ đưa chúng cho bạn khi chúng tôi cần đến bạn!
Với IoC thì các sự phụ thuộc sẽ được ghép vào các đối tượng tương ứng tại thời điểm run time thay vì compile time.
Nếu bạn vẫn chưa hiểu rõ về IoC thì ta hãy xem qua một ví dụ sau đây:
// With IoC
// Đầu tiên, ta đăng ký với IoC Container
IoC::register('computer', function() {
$keyboard = new Keyboard();
$monitor = new Monitor();
$computer = new Computer($monitor, $keyboard);
return $computer;
});
// Lấy ra một computer instance với dependency đã được inject
$photo = IoC::resolve('computer');
// Without IoC
$keyboard = new Keyboard();
$monitor = new Monitor();
$computer = new Computer($monitor, $keyboard);
Như ta thấy thì khi cần khởi tạo một instance của Computer
, thay vì khởi tạo một cách thông thường bằng từ khóa new
rồi truyền các dependency vào cho nó thông qua constructor, thì với IoC, ta sẽ lấy ra khỏi Container bằng hàm resolve
, các xử lý tạo dependency cũng như đưa dependency vào trong class cần khởi tạo đều được thực hiện trong hàm callback mà ta đã register với IoC Container.
Với mô hình này thì ta có thể khởi tạo Computer
bất cứ khi nào mà không cần phải nhớ xem nó cần những dependency gì. Khi bạn cần thêm module mới cho Computer
thì chỉ cần sửa lại hàm callback mà ta đăng ký với IoC Container là xong.
Thật là tuyệt vời là Laravel support IoC out of the box, chúng ta chỉ việc sử dụng.
Laravel Service Container
Như đã nói ở phần đầu, IoC Container ở phiên bản Laravel 4.2 đã được đổi tên lại thành Service Container ở phiên bản 5, với nhiều tính năng mới, tiện dụng hơn được thêm vào. Nhưng nhìn chung thì tư tưởng và cách hoạt động của nó không thay đổi. Service Container vẫn là một nơi quản lý class dependency và thực hiện dependency injection.
Bind và Resolve
Laravel sử dụng hai khái niệm bind
để chỉ việc đăng ký một class hay interface với Container, và resolve
để lấy ra instance từ Container.
Chẳng hạn như ta có một ví dụ về cách bind
cũng như cách resolve
như sau:
// Binding
\App::bind('computer', function() {
$keyboard = new Keyboard();
$monitor = new Monitor();
$computer = new Computer($monitor, $keyboard);
return $computer;
}
// Resolving.
\App::make('computer');
app('computer');
app()->make('computer');
app()['computer']
// Bạn có thấy có quá nhiều cách để bind và resolve không :D
// Hãy khoan nói về chuyện đó vội.
// Những bài sau mình sẽ giải thích kỹ càng về cách thức hoạt động của chúng.
Giống như một ví dụ ở phần trước, ta bind
vào Container bằng một callback có xử lý khởi tạo, rồi dùng make
để lấy ra, đó là một cách dùng thường thấy. Tuy nhiên ví dụ sau sẽ cho bạn thấy được Service Container của Laravel mạnh mẽ đến thế nào
class Computer
{
public $monitor;
public $keyboard;
public function __construct(Monitor $monitor, Keyboard $keyboard)
{
$this->monitor = $monitor;
$this->keyboard = $keyboard;
}
}
$computer = app('Computer');
// Hoặc
app()->bind('computer', 'Computer');
$computer = app('computer');
Như bạn thấy, ta không cần phải truyền bất cứ callback nào vào hàm bind
cả. Thậm chí ta còn có thể gọi thẳng app('Computer')
để khởi tạo ra một instance của Computer
mà không cần bind gì hết, không cần khởi tạo dependency, không cần inject cái gì cả!
Hãy cùng phân tích xem Service Container thực hiện phép màu đó như thế nào nhé.
- Trước tiên, hãy để ý vào constructor của class
Computer
. Ở đây ta đã type-hint cho những dependency được truyền vào. Cụ thể$monitor
là một instance của classMonitor
, còn$keyboard
là một instance của classKeyboard
. - Khi ta gọi
app()->bind('computer', 'Computer');
thì tức là ta đã register cho một cái instance của classComputer
với cái têncomputer
. Và ta có thể resolve ra instance từ class đó bằngapp('computer')
. - Khi ta gọi
app('Computer')
thì trước tiên Laravel sẽ kiểm tra xem đã có cái gì được bind vào Container dưới tênComputer
hay chưa. Nếu chưa thì nó sẽ coiComputer
là tên class và tiến hành resolve ra instance từ classComputer
. - Quá trình tạo ra instance được tiến hành như sau: Container trước tiên sẽ kiểm tra thấy
Computer
cần 2 dependency là$monitor
và$keyboard
, và do ta đã type-hint cho 2 dependency này nên Service Container sẽ hiểu là cần phải lấy ra 2 dependency đó từ đâu. Service Container tiến hành resolve ra 2 instance củaMonitor
vàKeyboard
(quá trình resolve được tiến hành tương tự như đang resolve raComputer
), rồi inject nó vàoComputer
thông qua constructor injection. Và thế là cuối cùng ta sẽ có được một instance củaComputer
. - Chú ý rằng Service Container sẽ ưu tiên những gì được bind vào nó hơn. Tức là nếu bạn có câu lệnh
app()->bind('Computer', function(){return 'thang';});
thì khi resolveComputer
nó sẽ ra string'thang'
thay vì ra instance của classComputer
Một trong những điểm yếu của dependency injection đó là người lập trình sẽ gặp nhiều khó khăn khi các dependency của họ phụ thuộc tầng tầng lớp lớp vào nhau. Như ở ví dụ trên thì Computer
có dependency là Monitor
và Keyboard
. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu Monitor
của bạn lại có vài ba cái dependency. Và những dependency đó lại có vài ba cái dependency khác nữa. Bạn sẽ phải chuẩn bị hết những dependency đó để tạo ra computer. Tuy nhiên với Service Container thì mọi thứ dễ chịu hơn nhiều. Nếu dependency của class của bạn cần những dependency khác, nó sẽ có khả năng tự động inject hết cho bạn.
Singleton binding, Instance binding, Interface binding và hơn thế nữa
Không chỉ hỗ trợ bind theo closure, hay tên class như đã trình bày ở trên, Service Container của Laravel còn hỗ trợ nhiều điều tuyệt vời hơn nữa
- Singleton binding: Như tên gọi của nó thì instance sẽ chỉ được resolve một lần, những lần gọi tiếp theo sẽ không tạo ra instance mới mà chỉ trả về instance đã được resolve từ trước
app()->singleton('now', function() {return time();});
app('now') === app('now'); // true
- Instance binding: Cũng gần giống với Singleton Binding. Bạn có một instance và bạn bind nó vào Service Container. Mỗi lần lấy ra bạn sẽ nhận lại được instance đó.
$now = time();
app()->instance('now', $now);
$now === app('now'); // true
- Interface binding: Như đã trình bày ở trên thì bạn có thể bind một Class dưới một cái tên bất kỳ. Và điều gì sẽ xảy ra nến cái tên đó là một Interface. Vâng nếu bạn bind một Interface với một Implementation của nó thì bạn sẽ có thể type-hint được Interface đó. Hãy cùng xem ví dụ dưới đây
class MailerImplementation implements MailerInterface {}
// Binding Interface với một Implementation của nó
app()->bind('MailerInterface', 'MailerImplementation');
// Trong constructor của một class nào đó ta có thể type-hint theo interface
public function __construct(MailerInterface $mailer)
{
$this->mailer = $mailer;
}
Trong ví dụ trên, khi mà một instance của class được resolve bằng Service Container thì $mailer
cũng sẽ được resolve ra, và nó sẽ là một instance của MailerImplementation
. Trong Laravel bạn sẽ gặp nhiều những trường hợp như trên khi sử dụng Contracts. Về bản chất thì Contracts chỉ đơn giản là những Interface, và khi bạn resolve hay type-hint chúng ở constructor hay methods thì sẽ nhận được Implementation tương ứng đã được đăng ký với Service Container. Chúng ta sẽ còn nhắc lại nhiều hơn về khái niệm này trong những bài sau ^^.
Nhưng bạn có thắc mắc là tại sao lại cần binding một Interface với một Implementation để làm gì không?
Tại sao lại cần phải type-hint Interface làm gì, sao ta không dùng thẳng tên class là implementation của Interface đó?
Câu trả lời là với việc type-hint Interface thì ta có thể có được sự linh hoạt trong việc thay đổi các Implementation mà mình muốn, hay sử dụng một Implementation mà mình viết thay vì cái mặc địch của Laravel mà không gây ảnh hưởng gì đến Framework hay service của mình. Đó là nguyên tắc "program to an interface, not an implementation"!
Chẳng hạn như bạn cần viết một package có chức sử dụng năng gửi mail. Hay nói cách khác bạn sẽ cần một class có dependency là một class gửi mail nào đó, giả sử là MailerImplentation
chẳng hạn. Nếu bạn sử dụng dependency injection thông qua constructor với type-hint là MailerImplentation
thì class của bạn sẽ hoàn toàn bị phụ thuộc vào MailerImplentation
đó và không thể thay đổi được. Thay vào đó bạn nên để dependency của class của mình là MailerInterface
, khi đó thì bất kỳ class nào có implement MailerInterface
đều có thể được inject vào và sử dụng trong class của bạn. Như vậy thì trong service chỉ cần có một implementation của MailerInterface
là package của bạn sẽ có thể hoạt động, bạn không cần biết implementation đó là gì, là mặc địch hay là do người khác viết.
- Contextual Binding giúp bạn giải quyết được vấn đề sử dụng nhiều Implementation trong service của mình. Chẳng hạn như bạn có đến 2, 3 class là implementation của một Interface. Tuy nhiên trong một trường hợp bạn cần inject implementation này và trong trường hợp khác bạn lại cần implementation khác, khi đó bạn sẽ cần đến Contextual Binding. Ngoài ra bạn còn có thể sử dụng tag để gom một lúc nhiều thứ vào làm một, để lúc resolve được dễ dàng hơn.
// Tag
app()->tag(['Foo', 'Bar'], 'example');
// Resolve ra một mảng gồm các instance của Foo và Bar
app()->tagged('example');
Service Container everywhere
Service Container là thành phần trung tâm của Laravel, và có thể bạn không để ý nhưng nó đang được sử dụng ở mọi ngóc ngách trong project của bạn đấy. Bạn có còn nhớ trong bài viết lần trước, phần đề cập về Dependency Injection mình đã từng giới thiệu một ví dụ như thế này không:
class UserController extends Controller
{
public function update(\Illuminate\Http\Request $request, $id)
{
$all = $request->all();
}
}
Đó là một ví dụ về method injection, tức inject dependency vào bên trong method của controller. Sở dĩ Laravel có thể giúp chúng ta thực hiện được việc đó là bởi vì nó sử dụng Service Container để resolve mọi controller. Mà đã dùng Service Container rồi thì như đã giải thích ở trên, bạn chỉ cần type-hint, và bạn sẽ có instance tương ứng
Không chỉ có Controller, mà hầu hết các phần quan trọng khác của Laravel như Middleware, Listener, Queue ... đều được resolve từ Service Container. Điều đó cũng có nghĩa là bạn có thể thực hiện dependency injection một cách dễ dàng trên chúng.
Lời kết
Trên document chính thức của Laravel, có một đoạn giới thiệu về Service Container như sau:
A deep understanding of the Laravel service container is essential to building a powerful, large application, as well as for contributing to the Laravel core itself.
Tạm dịch là "Sự hiểu biết sâu sắc về Laravel Service Container là điều thiết yếu để xây dựng một application lớn và mạnh mẽ, cũng như để đóng góp (contrubute) cho Laravel Core".
Nhìn chung, để có thể tìm hiểu sâu về Laravel thì Service Container là một khái niệm mà bạn không thể không nắm vững. Hy vọng bài viết này có thể giúp ích nhiều cho bạn.
Hẹn gặp lại các bạn trong những bài viết giới thiệu về những khái niệm xoay quanh Service Container như Service Providers, Contracts hay Facades sắp tới ^^!
All rights reserved
Bình luận
Cảm ơn bạn về bài viết rất hay và hữu ích
Cảm ơn anh rất nhiều \(^_^)//
Bài viết rất hay. Tôi phải đăng ký để thank bài này!
@tdchien @thanhws @phuocnt (thankyou) các bạn.
Bên cạnh bài viết về Service Container này thì vẫn còn các bài về các thành phần khác của Laravel trong Serie Laravel Beauty, các bạn có thể tham khảo. Hy vọng có thể nhận được ý kiến đóng góp từ mọi người. (honho)
Rất hay vào rất dễ hiểu cám ơn anh! wasshoi
Yes, I think this post is very helpful :3 bài viết hay lắm a ơi!
(thankyou) anh! Nhờ anh mà em thấy Laravel đúng là rất "đẹp"!
Như bạn nói các class dependency ví dụ ở trên như
Keyboard
hayMonitor
sẽ được tự độnginject
để tiến tớiresolve
ra một instance củaComputer
cuối cùng. Đó là trong trường hợp các class kia không có tham số khởi tạo hoặc có tham số là object, còn nếu tham số của nó là Array, String, Int thì sao nhỉ, Service Container sẽ lấy các cái đó ở đâu ra để pass vào cho đảm bảo mọi thứ diễn ra tự động?Mình nghĩ là có gì đó mình hiểu sai sai
Mong chỉ giáo 
@imndnam Với trường hợp tham số đầu vào là parameter không xác định kiểu object, hay không có giá trị mặc định thì đương nhiên Service Container sẽ không thể biết cách để mà resolve ra instance cho bạn.
Nếu bạn vẫn muốn mọi thứ diễn ra tự động thì bạn có thể sử dụng hàm
bind
để dạy cho Service Container cách resolve ra instance, hoặc đặt giá trị mặc định cho chúng.Chẳng hạn như một class như sau thì sẽ không thể resolve tự động bằng Service Container
Nhưng một class như sau thì có thể
Theo mình thì khi mà bạn gặp phải tình trạng
Có thể đang có vấn đề và có thể refactor lại cho tốt hơn đấy 
constructor
nhận vào biến không rõ kiểu như ở trên thì bạn nên xem xét lại code của mình@thangdt90 À mình hiểu rồi! Thanks so much
Bài viết rất chi tiết và dễ hiễu, chúc anh sức khỏe để có nhiều bài viết hay hơn nữa ^^
Cảm ơn bạn về bài viết rất hay này!
Bài viết rất hay và chi tiết, tuy nhiên mình vẫn chưa nắm hết được, chắc là do chưa làm thực tế nhiều, bookmarks lại chắc chắn sau này cần đến, big thanks !
Cảm ơn anh vì bài viết bổ ích
Bài viết rất hay, cảm ơn anh nhiều ^^ Tuy nhiên em vẫn còn mơ hồ, có lẽ phải thực hành nhiều mới hiểu sâu được.
Em mới vừa học laravel, cho e hỏi instance là gì vậy a, e tìm kiếm mấy tài liệu mà đọc mãi chả hiểu gì hết
Em vừa mới học thì cứ từ từ mà nghiền ngẫm thôi, cũng không cần nóng vội làm gì. Cứ học từ những cái cơ bản trước, nắm vững rồi thì từ từ tìm hiểu sâu hơn
Còn về câu hỏi của em thì
instance
thì em hiểu đơn giản là một thực thể củaclass
.Ví dụ như em khởi tạo một biến
$computer = new Computer()
thìComputer
ở đây là tên một lớp (class
), còn$computer
là một biến, gọi là mộtinstance
, hay một thực thể, của classComputer
vậy nó khác gì so vs object a
Hiểu một cách đơn giản, "instance của một class thì là một object" thôi em
Có vấn đề gì em cứ để lại câu hỏi trong bài viết này, hoặc đặt câu hỏi trong phần Question của Viblo https://viblo.asia/questions ý, sẽ còn có nhiều người dùng khác có thể support em mà
1 like cho a, e cảm ơn a
)
e có thắc mắc chổ "bind theo closure" a giải thích giúp e với ạ, nếu để MailerInterface $mailer trong hàm __construct khi chạy có lỗi a ơi ???
Bài viết rất hay, tks nhé !
khúc này em ko hiểu lắm a có thể giải thích kỹ hơn giúp em không ạ!! thanks anh bài viết rất hay
Hiểu một cách đơn giản là Singleton Binding chỉ trả ra 1 giá trị duy nhất là được em ạ, em có gọi 10 lần thì nó cũng chỉ trả về cùng một giá trị/object
Lần đầu tiên em gọi thì giá trị/object đó chưa tồn tại, Service Container sẽ tiến hành resolve nó ra, đồng thời lưu lại. Lần sau em gọi lại thì hệ thống sẽ lấy ra đúng giá trị/object đó để trả lại cho em mà sẽ không tiến hành tạo ra giá trị/object mới.
Như trong ví dụ ở bài viết thì em có thể khai báo singleton binding như sau
sau đó em có gọi hàm
app('now')
bao nhiêu lần đi chăng nữa, thì nó cũng sẽ chỉ trả về duy nhất một giá trị (đó là time của lần gọi đầu tiên)À e cũng hiểu về lý thuyết rồi ạ, anh có thể thêm 1 ví dụ nhỏ để e dễ hình dung trong dự án thực tế không anh? Em cám ơn a
Ví dụ như ứng dụng của em cần khởi tạo kết nối đến Database để chạy query chẳng hạn. Trong một request kể cả khi có nhiều chỗ cần query DB thì thay vì ở mỗi lần chạy query, em cần khởi tạo DB connection, chạy query rồi đóng DB connection, giờ em chỉ cần singleton binding lúc ban đầu, thì sẽ có object DB connection được tạo ra ở lần resolve đầu tiên. Những lần resolve tiếp theo sẽ là dùng lại object đó thôi, tiết kiệm được các xử lý open và close connection ở nhiều nơi khác nhau
À
$monitor
và$keyboard
thì sẽ tiếp tục được Service Container resolve ra em ạNếu mình đã binding vào từ trước thì sẽ lấy trực tiếp từ binding ra, còn nếu không binding gì thì đơn giản là Service Container sẽ cố gắng khởi tạo một instance mới cho em. Đương nhiên lúc này giả sử để khởi tạo một instance
$keyboard
cần các dependencies khác thì Service Container sẽ lại tiếp tục phải resolve ra những dependencies đó trước để truyền vào.Em đọc kỹ lại phần Bind và Resolve anh có nhắc đến phần này đấy, có thể hơi khó hiểu nhưng em đọc kỹ một chút là chắc sẽ hiểu được vấn đề thôi
lằng tờ ngoằng thật, đang quen kiểu đọc code gặp thằng hàm này thì biết nó viết ở đâu, còn ông này thì ếu biết tìm nó ở chỗ nào luôn
Cảm ơn bạn, bài viết thực sự rất hữu ích với mình
OK
Bài viết rất hay, tks anh