Tìm hiểu về font metrics, line-height và vertical-align (phần 1)
Bài đăng này đã không được cập nhật trong 6 năm
Bài viết được dịch từ bài Deep dive CSS: font metrics, line-height and vertical-align của tác giả Vincent De Oliveira.
Line-height
và vertical-align
là các thuộc tính CSS đơn giản. Đơn giản đến nỗi hầu hết chúng ta đều bị thuyết phục rằng mình đã hoàn toàn hiểu cách chúng hoạt động và cách sử dụng chúng. Nhưng không phải vậy. Thực sự chúng phức tạp, có lẽ là phức tạp nhất, do chúng đóng vai trò chính trong việc tạo thành một trong những tính năng ít được biết đến của CSS: inline formatting context.
Ví dụ, line-height
có thể nhận giá trị là một độ dài hoặc một giá trị không đơn vị, với giá trị mặc định là normal
. Được rồi, vậy normal nghĩa là như thế nào? Chúng ta thường hiểu rằng nó là (hoặc nên là) 1
, hoặc có thể là 1.2
, thậm chí đặc tả của CSS còn không mô tả rõ ràng về vấn đề này. Chúng ta biết rằng giá trị không đơn vị của line-height
có tính tương đối với font-size
, nhưng vấn đề là font-size: 100px
khác nhau đối với các font-family khác nhau, vậy thì line-height
luôn luôn giống hay khác nhau? Nó có thực sự nhận giá trị giữa 1 và 1.2? Và vertical-align
, ý nghĩa liên quan đến line-height
của nó là gì?
Tìm hiểu sâu về một cơ chế không-đơn-giản của CSS...
Hãy nói về font-size
trước
Hãy xem đoạn code HTML đơn giản bên dưới, một thẻ <p>
chứa 3 thẻ <span>
, mỗi thẻ sử dụng một font-family
khác nhau:
<p>
<span class="a">Ba</span>
<span class="b">Ba</span>
<span class="c">Ba</span>
</p>
p { font-size: 100px }
.a { font-family: Helvetica }
.b { font-family: Gruppo }
.c { font-family: Catamaran }
Sử dụng cùng một font-size
với các font-family khác nhau sẽ tạo ra các phần tử với chiều cao khác nhau:
Các font-family khác nhau, cùng font-size, sinh ra các chiều cao khác nhau
Tuy chúng ta đoán trước được việc đó, nhưng tại sao font-size: 100px
không sinh ra các phần tử với chiều cao 100px? Tôi đã đo và nhận được các giá trị: Helvetica: 115px, Gruppo: 97px và Catamaran: 164px
Các phần tử với font-size: 100px có chiều cao thay đổi từ 97px đến 164px
Dù có vẻ hơi kỳ lạ, nhưng điều này hoàn toàn nằm trong dự đoán. Lý do nằm ở bản thân các font chữ. Dưới đây là cách các font chữ hoạt động:
-
Một font định nghĩa em-square (hay UPM, units per em) của nó, một dạng ô chứa mà các ký tự được vẽ ra. Ô vuông này sử dụng các đơn vị tương đối và thông thường có giá trị 1000 đơn vị. Nhưng nó cũng có thể là 1024, 2048 hoặc các giá trị khác.
-
Dựa trên đơn vị tương đối của nó, các chỉ số của font chữ (font metrics) sẽ được xác định (ascender, descender, capital height, x-height, v..v..). Chú ý là một số giá trị có thể tràn ra ngoài em-square.
-
Trên trình duyệt, các đơn vị tương đối có thể được co giãn để vừa với font-size mong muốn.
Hãy mở font Catamaran bằng FontForge để xem các chỉ số:
- em-square là 1000
- ascender là 1100 và descender là 540. Sau khi kiểm tra thử, có vẻ các trình duyệt sử dụng các giá trị HHead Ascent/Descent trên MacOS và Win Ascent/Descent trên Windows (các giá trị này có thể khác nhau!). Chúng ta cũng chú ý rằng Capital Height là 680 và X height là 485.
Các chỉ số của font khi xem trên FontForge
Điều đó có nghĩa là font Catamaran sử dụng 1100 + 540 đơn vị trên 1000 đơn vị em-square, kết quả là 164px khi thiết lập giá trị font-size: 100px
. Chiều cao được tính toán (computed height) này định nghĩa content-area của một phần tử và tôi sẽ đề cập tới khái niệm này trong suốt phần còn lại của bài viết. Bạn có thể coi content-area là vùng mà thuộc tính background
được áp dụng (điều này cũng không hoàn toàn chính xác).
Chúng ta có thể dự đoán rằng độ cao của các chữ cái in hoa là 68px (680 đơn vị) và các chữ cái in thường (x-height) là 49px (485 đơn vị). Kết quả là 1ex
= 49px và 1em
= 100px, không phải 164px (may mắn là em
là giá trị dựa trên font-size
, không phải chiều cao được tính toán).
Font Catamaran: UPM - Units Per Em - và lượng pixel tương ứng khi sử dụng font-size: 100px
Trước khi tìm hiểu kỹ hơn, hay xem xem những thứ trên có ý nghĩa gì. Khi một phần tử <p>
được hiển thị trên màn hình, nó có thể được tạo bởi nhiều dòng, dựa vào độ rộng của nó. Mỗi dòng được tạo bởi một hay nhiều phần tử inline (thẻ HTML hay các phần tử inline vô danh như text) và mỗi dòng này được gọi là một line-box. Chiều cao của một line-box dựa trên chiều cao của các phần tử con của nó. Do đó trình duyệt sẽ tính toán chiều cao của mỗi phần tử inline, từ đó tính ra chiều cao của line-box (từ điểm cao nhất đến điểm thấp nhất của các phần tử con). Kết quả là một line-box luôn đủ cao để có thể chứa tất cả các phần tử con của nó (mặc định là vậy).
Mỗi phần tử HTML thực ra là một chồng các line-box. Nếu bạn biết chiều cao của mỗi line-box, bạn sẽ biết được chiều cao của phần tử đó.
Nếu chúng ta sửa code HTML ở trên thành thế này:
<p>
Good design will be better.
<span class="a">Ba</span>
<span class="b">Ba</span>
<span class="c">Ba</span>
We get to make a consequence.
</p>
nó sẽ sinh ra 3 line-box:
- line-box đầu tiên và cuối cùng chứa một phần tử inline vô danh (text)
- line-box thứ 2 chứa 2 phần tử inline vô danh và 3 thẻ
<span>
Một thẻ <p>
(đường viền đen) được tạo thành từ các line-box (đường viền trắng) chứa các phần tử inline (đường viền trơn) và các phần tử inline vô danh (đường viền nét đứt)
Chúng ta thấy rõ rằng line-box thứ 2 cao hơn các line-box khác, do content-area của các phần tử con của nó, và chính xác hơn là phần tử sử dụng font Catamaran.
Phần khó trong việc tạo thành line-box là chúng ta không thực sự nhìn thấy hay kiểm soát được nó bằng CSS. Ngay cả việc áp dụng thuộc tính background vào ::first-line
cũng không cho chúng ta một dấu hiệu trực quan về chiều cao của line-box đầu tiên.
line-height
: các vấn đề và hơn thế nữa
Tới giờ, tôi đã giới thiệu tới các bạn 2 khái niệm: content-area và line-box. Nếu bạn nhớ, tôi đã nói rằng chiều cao của một line-box được tính toán dựa trên chiều cao của các phần tử con của nó chứ không nói rằng nó được tính toán dựa trên chiều cao của content-area của các phần tử con đó. Điều này tạo ra một khác biệt lớn.
Nghe có vẻ lạ, nhưng một phần tử inline có 2 chiều cao khác nhau: chiều cao content-area và chiều cao virtual-area (tôi đã tạo ra khái niệm virtual-area để đại diện cho chiều cao mà chúng ta nhìn thấy được, bạn sẽ không thấy trong đặc tả đâu).
- chiều cao content-area được định nghĩa bởi các chỉ số của font (như đã nói ở trên).
- chiều cao virtual-area là
line-height
, và nó là chiều cao được dùng để tính toán chiều cao của line-box.
Các phần tử inline có 2 chiều cao khác nhau
Như vậy, điều này đã phá vỡ quan niệm thông thường rằng line-height
là khoảng cách giữa các baseline. Trong CSS thì không như vậy.
Trong CSS, line-height không phải là khoảng cách giữa các baseline
Chiều cao khác nhau giữa virtual-area và content-area được gọi là leading. Một nửa leading được cộng thêm vào phía trên của content-area, nửa còn lại được cộng thêm vào phía dưới. Do đó content-area luôn ở giữa của virtual-area.
Dựa trên các giá trị được tính toán, line-height
(virtual-area) có thể bằng, cao hơn hoặc thấp hơn content-area. Trong trường hợp virtual-area thấp hơn, leading sẽ âm và một line-box trông sẽ thấp hơn các phần tử con của nó.
Còn có các loại phần tử inline khác:
- các phần tử inline thay thế (
<img>
,<input>
,<svg
, v..v..) inline-block
và tất cả các phần tửinline-*
- các phần tử inline xuất hiện trong một bối cảnh định dạng riêng biệt (ví dụ như trong một phần tử flexbox, tất cả các flex item là blocksified).
Với các phần tử inline riêng biệt này, chiều cao được tính dựa trên các thuộc tính height
, margin
và border
của chúng. Nếu height
là auto
thì line-height
được sử dụng và content-area sẽ bằng với line-height
.
Các phần tử inline thay thế, inline-block/inline-* và blocksified có content-area bằng với chiều cao, hay line-height, của chúng
Tuy nhiên, vấn đề của chúng ta là giá trị normal
của line-height
là bao nhiêu? Và câu trả lời, như việc tính toán chiều cao content-area, được tìm thấy trong các chỉ số của font.
Vậy thì hãy quay lại với FontForge. em-square của Catamaran là 1000, nhưng chúng ta thấy nhiều giá trị ascender/descender khác nhau:
- Ascent/Descent thông thường: ascender là 770 và descender là 230. Được sử dụng để vẽ ký tự (bảng "OS/2")
- Các chỉ số Ascent/Descent: ascender là 1100 và descender là 540. Được sử dụng để tính chiều cao content-area (bảng "hhea" và bảng "OS/2")
- chỉ số Line Gap. Được sử dụng cho
line-height: normal
, bằng cách cộng thêm giá trị này vào các chỉ số Ascent/Descent (bảng "hhea")
Trong trường hợp của chúng ta, font Catamaran định nghĩa line gap với giá trị là 0, nên line-height: normal
sẽ bằng với content-area, tức là 1640 đơn vị, hay 1.64.
Để so sánh, font Arial định nghĩa em-square với giá trị 2048 đơn vị, ascender = 1854, descender = 434 và line gap = 67. Nghĩa là với font-size: 100px
thì content-area sẽ là 112px (1117 đơn vị) (Người dịch: (1854 + 434) * 1000 / 2048 = 1117,1875) và line-height: normal
là 115px (1150 đơn vị hay 1.15). Tất cả các chỉ số này là của riêng font và được thiết lập bởi người thiết kế font.
Do đó, hiển nhiên rằng việc đặt line-height: 1
là một cách làm xấu. Tôi xin nhắc lại rằng các giá trị không đơn vị có tính tương đối với font-size
, không tương đối với content-area, và trường hợp virtual-area thấp hơn content-area là nguồn gốc của rất nhiều vấn đề.
Sử dụng line-height: 1 có thể tạo ra một line-box thấp hơn content-area
Nhưng không chỉ có mỗi line-height: 1
. Trong số 1117 font được cài trên máy của tôi (phải, tôi cài tất cả các font của Google Web Fonts), 1059 font, khoảng 95%, có line-height
lớn hơn 1. line-height
của tất cả các font đó dao động từ 0.618 tới 3.378. Bạn vừa đọc đúng rồi đấy, 3.378!
Một chút chi tiết nữa về việc tính toán line-box:
-
với các phần tử inline,
padding
vàborder
làm tăng vùng background, nhưng không làm tăng chiều cao content-area (cũng như chiều cao của line-box). Do đó content-area không phải lúc nào cũng là thứ bạn nhìn thấy trên màn hình.margin-top
vàmargin-bottom
không có tác dụng. -
Với các phần tử inline thay thế,
inline-block
và blocksified:padding
,margin
vàborder
làm tăngheight
nên làm tăng chiều cao content-area và line-box.
(còn tiếp)
All rights reserved