+14

Functional Reactive Programming

Functional Reactive Programming là gì?

Functional Reactive Programming (FRP) là mô hình lập trình hướng tới luồng dữ liệu và sự lan truyền thay đổi. Ttrong FRP, ta có một loại dữ liệu thể hiện được "giá trị thay đổi theo thời gian", ta có thể áp dụng các hàm cơ bản đặc trưng của functional programming (ví dụ như map, reduce, scan...). Ví dụ, trong mô hình lập trình thông thường - imperative programming - khi ta có a = b + c, giá trị của a thu được chính là tổng giá trị của bc tại thời điểm chạy câu lệnh, sau thời điểm đó giá trị b, c có thể thay đổi nhưng sẽ không làm thay đổi giá trị của a. Đối với FRP thì khác, giá trị của a luôn tự động cập nhật theo giá tri của bc. Việc này giống như bảng tính Excel vậy, trong một ô nếu ta ghi công thức =A1+B1 thì khi giá trị của ô A1 hay B1 được cập nhật, thì giá trị ô bảng tính vừa rồi cũng được cập nhật theo.

Observable

Về cơ bản, "giá trị thay đổi theo thời gian" trong FRP có hai loại giống như bất cứ loại dữ liệu nào trong tự nhiên: rời rạc và liên tục. Tuy nhiên, do bản chất của máy tính, việc cài đặt hỗ trợ mô hình loại dữ liệu liên tục khó khăn hơn, hầu hết các framework hiện nay mới hỗ trợ cho các cập nhật rời rạc, hướng sự kiện. Trong mô hình này, dữ liệu được mô hình thành các tín hiệu chứa giá trị hiện tại, thay đổi một cách rời rạc gọi là sự kiện. Các sự kiện này thực tế là một dòng sự kiện bất đồng bộ. Như vậy dùng FRP là ta lập trình với dòng dữ liệu bất đồng bộ.

Chúng ta đã quen với việc làm việc với dòng dữ liệu từ lâu. Nguồn xuất dòng dữ liệu chính là producer, và consumer sử dụng dòng dữ liệu đó. Để giải quyết bài toán produce - consumer này ta đã có 2 design pattern IteratorObservable. Đối với Iterator, consumer khi cần dữ liệu thì mới yêu cầu producer, giống như khi ta hết thực phẩm mới ra siệu thị mua đồ vậy. Còn đối với Observable, consumer đăng ký với producer, khi producer sẽ chuyển trực tiếp cho consumer ngay khi có sản phẩm. Việc này tương tự như chúng ta đặt báo hàng tháng: sau khi đăng ký, mỗi khi đến kỳ có báo mới là có nhân viên giao báo tới tận nhà chúng ta. Trong FRP, dòng sự kiện là Observable. Các observer đăng ký với observable, và phản ứng với các item mà observable emit ra.

Ví dụ, một observable sẽ tạo ra một dòng event như sau:

-----1---3--3---4-2---X--2----|->

1, 2, 3, 4 là các giá trị được emit
X tương ứng với lỗi
| là báo hiệu dòng event đã kết thúc
---> thể hiện dòng thời gian

Nếu chỉ có như vậy thì FRP chẳng hơn gì ta lập trình bình thường sử dụng design pattern Observable. Trong FRP, observable được mô hình như một collection bình thường, từ đó ta có thể áp dụng các hàm cho collection, biến đối từ một observable này sang một observable khác.

Xét một mảng thông thường

[1, 3, 3, 4]

Giờ xét một observable

--1---3-3-----4--|->

Có thể thấy, một observable có thể xem như là một collection, trong đó các giá trị của nó chưa có sẵn, nhưng được cam kết sẽ có trong tương lai.

Với việc xem observable như một collection, ta có thể lập trình với một mức trừu tượng cao hơn. Ta có thể định nghĩa các mối quan hệ giữa các sự kiện một cách rõ ràng thay vì phải viết hàng loạt đoạn code cài đặt phức tạp.

Ví dụ minh hoạ

Để có thể hiện ưu điểm của FRP, ta cùng xét một ví dụ. Giả sử ta cần cài đặt một search box, request lên server ngay trong lúc người dùng đang gõ để gợi ý. Tuy nhiên nếu như vậy, khi người dùng gõ "beautiful flower", ta phải gửi 16 truy vấn, hầu hết đều không có tác dụng gì. Do đó, searchbox của ta sẽ không được gửi request khi người dùng đang gõ liên tục. Ngoài ra, khi đang request mà người dùng gõ thêm, thì không được phép hiện kết quả cũ, mà phải chờ kết quả mới.

Ở đây, tôi chọn thư viện RxJS để làm ví dụ. Vậy giải quyết bài toán này bằng FRP như thế nào?

Trước hết, cần biết rằng mọi thứ đều có thể là observable: đầu tiên ta cho sự kiện người dùng bấm một nút trên bàn phím, làm thay đổi text trong search box là một observable:

-xxx--x-xx-xx-xx-----|->

Để tạo observable từ event rất đơn giản:

var keyPressObservable = Rx.Observable.fromEvent(inputRx, 'keyup');

Do event keypress không bắt được việc bấm backspace, vậy nên ở đây ta dùng tạm keyup.

Lúc người dùng đang gõ liên tục, ta tạm thời không quan tâm. Ta có thể dùng method throttle để chỉ lọc những sự kiện mà ta cần. Throttle chỉ emit các item từ Observable nếu đã qua một khoảng thời gian mà không emit một item nào khác.

keyPressObservable.throttle(200);
keyPressObservable: -xxx--x-xx-xx-xx-----|->
                    vvvv throttle(200) vvvv
                    -----x--x--x--x--x---|->

Sau khi người dùng tạm dừng gõ, ta muốn biết người dùng đã gõ được những gì. Ta sẽ map từng event với giá trị mà người dùng đã gõ được.

requestObservable = keypressObservable.throttle(200)
  .map(function (key) {
    return inputRx.val();
});

Như vậy ta đã có một dòng các text mà ta cần gửi truy vấn. Mỗi khi có một request, ta cần gửi yêu cầu lên server, và thu nhận lại kết quả. Trong Rx, ta có thể dễ dàng chuyển đổi từ Promise, kết quả của truy vấn ajax, sang observable: var observable = Rx.Observable.fromPromise(promise), ta sẽ dùng nó để tạo ra observable cho response.

Với mỗi request trong collection requestObservable, ta biến đổi thành một response = f(request), lại nghề của map rồi:

var responseObservableOfObservable =
requestObservable.map(function(requestData) {
  return Rx.Observable.fromPromise(getResult(requestData));
}

Mỗi request ta sinh ra một observable của response, như vậy từ requestObservable ban đầu, ta đã sinh ra một Observable của Observable, một collection của các collection. Nhưng ta không quan tâm đến tập các collection làm gì, ta chỉ quan tâm tới từng phần tử trong từng collection đó thôi. Vì vậy, ta cần "là phẳng" nó đi, biến nó thành một observable duy nhất.

var responseObservableOfObservable =
requestObservable.map(function(requestData) {
  return Rx.Observable.fromPromise(getResult(requestData)).concatAll();
}

Việc map rồi concatAll gặp rất thường xuyên, vì vậy Rx hỗ trợ flatMap, kết hợp của cả hai

var responseObservableOfObservable =
requestObservable.flatMap(function(requestData) {
  return Rx.Observable.fromPromise(getResult(requestData));
}

Khi đang request mà có thêm một request mới, ta cần huỷ request trước đi. Rx có method takeUntil để giải quyết vấn đề này

--1----2--3--4---5-6--7--8--9--|->
---------------a---------------|->
vvv         takeUntil          vvv
--1----2--3--4-|----------------->

Áp dụng vào bài toán của ta, khi người dùng tiếp tục bấm nút thì huỷ request cũ:

var responseObservable = requestObservable.flatMap(function (requestData) {
    return Rx.Observable.fromPromise(getResult(requestData))
        .takeUntil(keyPressObservable);
});

Khi đã có Observable cho response, ta chỉ cần subscribe nó để hiển thị kết quả:

responseObservable.subscribe(function (result) {
    showResult(outputRx, result);
}, function () {
    showResult(output, "There is some error");
});

Tổng hợp lại toàn bộ code cho searchbox là:

var keyPressObservable = Rx.Observable.fromEvent(inputRx, 'keyup');
var requestObservable = keyPressObservable.throttle(200)
    .map(function (key) {
    return inputRx.val();
});
var responseObservable = requestObservable.flatMap(function (requestData) {
    return Rx.Observable.fromPromise(getResult(requestData))
        .takeUntil(keyPressObservable);
});

responseObservable.subscribe(function (result) {
    showResult(outputRx, result);
}, function () {
    showResult(outputRx, "There is some error");
});

Nếu loại bỏ hết các biến tạm ta chỉ còn

var keyPressObservable = Rx.Observable.fromEvent(inputRx, 'keyup').throttle(200)
    .map(function(key) {
        return inputRx.val();
    })
keyPressObservable.flatMap(function(requestData) {
        return Rx.Observable.fromPromise(getResult(requestData)).takeUntil(
            keyPressObservable);
    }).subscribe(function(result) {
        showResult(outputRx, result);
    }, function() {
        showResult(outputRx, "There is some error");
    });

So sánh với việc cài đặt chức năng tương đương mà không dùng Rx

var timeout = null;
var currentRequest = null;
input.keyup(function() {
    if (timeout) clearTimeout(timeout);
    if (currentRequest) currentRequest.abort();
    var text = input.val();
    timeout = setTimeout(function() {
        currentRequest = getResult(text)
            .done(function(result) {
                showResult(output, result);
            })
            .fail(function(jqXHR, status, error) {
                if (error === "abort") return;
                showResult(output, "There is some error");
            });
    }, 200);
});

Có thể thấy, với Rx, ta mô tả một cách tự nhiên bài toán vào trong code, chỉ cần nói mình muốn gì là máy tính thực hiện. Còn trong ví dụ trên, ta phải tự đặt timeout, huỷ request, hướng dẫn từng bước để máy tính thực hiện theo ý ta.

Phần code trong bài này có thể thử tại: https://jsfiddle.net/xuanduc987/d79q1rj5/

Một số trang liên quan


All rights reserved

Viblo
Hãy đăng ký một tài khoản Viblo để nhận được nhiều bài viết thú vị hơn.
Đăng kí