+11

[JavaScript] Tôi chưa bao giờ hiểu JavaScript closures

Cho đến khi ai đó giải thích cho tôi như thế này

Bài viết này được dịch từ I never understood JavaScript closures và mình khuyến khích mọi người đọc bài viết chính chủ bằng tiếng Anh nhé.

Đúng như tiêu đề của tác giả vậy, đối với tác giả thì JavaScript closures luôn mang một chút bí ẩn ( nhưng đối với mình thì nó cũng bí ẩn không kém ) .

Tôi đã đọc nhiều bài báo, từng sử dụng closures trong khi code và đôi khi tôi sử dụng closure mà không hề nhận ra là mình đang sử dụng đến nó.

Gần đây, tôi có tham gia 1 buổi nói chuyện và dường như đã khai sáng. Vì thế, trong phạm vi bài viết, tôi sẽ dùng cách tiếp cận trong buổi nói chuyên này để giải thích về closures.

Những bài tác giả đã đề cập :

Gần đây gặp được một số người, nhờ cách giải thích của họ về closures nên cuối cùng tôi đã hiểu được nó. Hôm nay, trong bài viết này tôi sẽ dùng cách đó để giải thích lại cho các bạn về closures . Tôi xin cảm ơn đến những tác giả tại CodeSmith và series của họ là JavaScript The Hard Parts series.

Trước khi bắt đầu

Có một số khái niệm quan trọng chúng ta cần hiểu rõ trước khi tìm hiểu về closures. Một trong số đó chính là Execution Context ( Bối cảnh thực thi ).

Tham khảo định nghĩa trong bài này để hiểu rõ hơn về Execution Context.

Execution Context

Execution Context là một khái niệm trừu tượng được sử dụng bởi ECMAScript để theo dõi việc đánh giá thời gian chạy của code.

Mỗi Execution Context sẽ có 2 phase :

  • Creation Phase ( Giai đoạn khởi tạo )
  • Execution Phase ( Giai đoạn thực thi )

Các loại Execution Context trong JavaScript

Execution Context trong JavaScript được chia thành 3 loại:

Global Execution Context :

Đây là Execution Context mặc định hay có thể gọi là Base Execution Context, là những đoạn code không nằm trong bất cứ function nào.

Nó làm 2 nhiệm vụ :

  • Tạo Global Object : Gọi là Window Object.
  • Gắn Value của thisvới Global Object này.
  • Chỉ có duy nhất một Global Execution Context trong một chương trình.

Khi chúng ta khai báo thêm variable:

Creation Phase của Global Execution Context sẽ có các bước :

  1. Tạo Global Object.
  2. Tạo Object tên là window và gán nó với con trỏ this.
  3. Setup vùng nhớ tạm cho variablefunction.
  4. Gắn giá trị undefined cho variable, trỏ từng function đến vùng nhớ.

Thử log giá trị sau Creation Phase và trước Execution Phase.

Function Execution Context:

Được tạo ra khi function được thực thi, sẽ có 1 Excution Context mới được tạo ra cho function đó. Mỗi function sẽ có Execution Context riêng.

Creation Phase của Function Execution Context sẽ có các bước :

  1. Tạo một Object tên arguments.
  2. Setup vùng nhớ tạm cho variablefunction.
  3. Gắn giá trị undefined cho variable, trỏ từng function đến vùng nhớ.

Các bạn có thể thấy cái ô màu hồng trên màn hình nó xuất hiện khi function được thực thi, sau đó bị remove khi function thực chạy xong. Khi tạo một Execution Context, JavaScript đưa vào một hàng đợi gọi là Call Stack, sau khi đã chạy xong 2 phase nó remove khỏi Call Stack.

Eval Function Execution Context:

Bên trong 1 eval function cũng có những Execution Context riêng của nó, nhưng vì eval không được sử dụng nhiều bởi các developers JavaScript, nên ta sẽ không thảo luận nó trong bài này.

Nói cách khác, khi bắt đầu một chương trình JavaScript, Chúng ta sẽ bắt đầu trong Global Execution Context. Sẽ có một số variable lúc này được khai báo là global variables. Vậy trong quá trình chương trình thực thi, khi chạy đến một function, điều gì sẽ xảy ra :

  1. Đầu tiên JavaScript sẽ tạo một Function Execution Context của function đó.
  2. Function Execution Context sẽ có tập hợp những variable riêng được định nghĩa trong function đó, và nó chỉ sử dụng được trong Context của function đó mà thôi.
  3. Execution Context mới này sẽ được đưa vào Execution Stack. Có thể hiểu Execution Stack là một cơ chế dùng để biết được nơi mà chương trình nó thực thi ở đâu.

Vậy khi nào thì một function kết thúc? Đó là lúc nó bắt gặp return hoặc là gặp closing bracket }. Khi một function đóng, nó sẽ xảy ra như sau:

  1. Function Execution Context sẽ được xóa khỏi Execution Stack.
  2. Những functions đã được 'triệu hồi' sẽ return value cho Context đã gọi nó (calling context). Context đó có thể là Global Execution Context hoặc là một Function Execution Context khác. value trả về sẽ được xử lý như thế nào thì tuỳ thuộc vào calling context tại thời điểm đó. Giá trị trả về có thể là một object, một array, một function, boolean hoặc một thứ gì đó bất kỳ. Nếu function không có return thì giá trị trả về sẽ là undefined.
  3. Function Execution Context đó sẽ bị huỷ. Điều này rất quan trọng. Tất cả các variables trong đó đều được xoá khỏi bộ nhớ. Nó sẽ không còn tồn tại nữa. Đó cũng là lý do tại sao chúng ta gọi nó là biến cục bộ.

Vào bất thời điểm nào, chỉ có một Context được chạy. Đấy là lý do vì sao JavaScriptSingle Thread (đơn luồng), nói tóm lại là nó chỉ làm được 1 việc tại 1 thời điểm mà thôi. Thông thường các browser đảm bảo thực thi Context bằng việc sử dụng một ngăn xếp ( stack ). Ngăn xếp là cấu trúc dữ liệu dạng Last In First Out (LIFO), có nghĩa là thứ cuối cùng bạn đặt vào sẽ là thứ đầu tiên bạn lấy ra.

Tuy nhiên, một Execution Context đang chạy không có nghĩa là nó phải kết thúc trước khi một Execution Context có thể chạy, có trường hợp Execution Context đang chạy bị treo và một Execution Context khác được chạy. Execution context bị tạm dừng để thay thế đó sau đấy sẽ được chọn để chạy lại. Một Execution context mình gọi là A bị thay thế bởi Execution context B , thì B sẽ được đẩy lên đỉnh ngăn xếp và trở thành Execution Context hiện tại.

Một ví dụ đơn giản:

Trước khi chúng ta bắt đầu về closures hãy khảo sát đoạn code sau đây. Nó rất rõ ràng và dễ hiểu với bất kỳ ai đang đọc bài này :

1: let a = 3
2: function addTwo(x) {
3:   let ret = x + 2
4:   return ret
5: }
6: let b = addTwo(a)
7: console.log(b)

Để hiểu được cách mà JavaScript enginework như thế nào, chúng ta hãy phân tích chi tiết nó ra :

  1. Đầu tiên, chúng ta khởi tạo một variables trong Global Execution Context có tên là a và gán nó nó có giá trị bằng 3.
  2. dòng 2 đến dòng 5 là thực hiện việc định nghĩa một function có tên là addTwo và cũng trong Global Execution Context, những thứ nằm trong {} được gắn cho addTwo. function này chưa được executed (thực thi). mới được khởi tạo nhé các bạn, nó chỉ được lưu đấy và chờ sử dụng thôi.
  3. Dòng 6 có vẻ rất Simple Love, nhưng có nhiều vấn đề ở đây. Đầu tiên ta khai báo một variable trong Global Execution Context có tên là b, ngay khi được Creation thì nó sẽ được gán giá trị là undefined. ( chưa hiểu sao undefined thì kéo lên trên đọc nhé các bạn ).
  4. Vẫn là dòng 6, chúng ta có một phép gán ở đây, b sẽ được gán giá trị mới, function addTwo sẽ được triệu hồi. Cái gì được return từ function addTwo đều sẽ được gán cho variables b.
  5. À đầu tiên, phải gọi là function AddTwo, JavaScript sẽ tìm trong Global Execution Context một variables có tên là addTwo .Nó tìm được một cái, các bạn có thể thấy từ dòng 2 dến dòng 5. AddTwo này là một function, a lúc này là một param được truyền vào function.JavaScript tìm một variables a trong Global Execution Context, sau khi tìm được thì nó truyền value của variables vào function.
  6. Bây giờ Execution Context sẽ chuyển sang addTwo Function Execution Context, Execution Context này sẽ được đưa vào ngăn xếp để thực thi (call stack).
  7. Điều đầu tiên trong function này làm là gì ? Bạn có thể bị nhầm là nó sẽ thực hiện việc khai báo một variables tên ret. Câu trả lời đúng là chúng ta hãy xem param function được nhận vào trước tiên, và vì giá trị truyền vào function3 nên variable xvalue là `3.
  8. Bước tiếp theo là: variable ret được khai báo và gán giá trị là undefined (line 3).
  9. Vẫn dòng 3, cần thêm một điều nữa để thực thi. Đầu tiên chúng ta cần giá trị của x, JavaScript sẽ tìm một variable tên là x. Nó sẽ tìm trong Function Execution Context Và khi đã tìm thấy giá trị nó là 3toán tử thứ hai là 2. Kết quả của phép cộng là 5 sẽ được gán cho variable ret.
  10. Dòng 4, giá trị của ret sẽ được **return** cho **function**addTwo, tìm kiếm trong *Function Execution Context**ret`, function return value ret. function kết thúc.
  11. Dòng 4 đến 5, function kết thúc, Function Execution Context addTwo bị hủy, variable xret bị xóa khỏi bộ nhớ, nó không còn tồn tại nữa, Context này sẽ bị xóa khỏi stackvalue return ở đây là 5 sẽ được gửi đến Context gọi nó ( Calling Context ), ở đây chính là Global Execution Context, bởi vì function đã được gọi từ Global Execution Context.
  12. Value return5 sẽ được gán cho variable b.

Lexical Scope

1 let val1 = 2

2 function multiplyThis(n) {
3    let ret = n * val1
4    return ret
5 }
6 let multiplied = multiplyThis(6)
7 console.log('example of scope:', multiplied);

Câu chuyện ở đây là gì, chúng ta có những variable trong các Function Execution ContextGlobal Execution Context, một điều rắc rối của JavaScript là làm thế nào là làm sao nó kiếm được variable nó cần, nếu nó không tìm được trong Function Execution Context của nó, nó sẽ tìm đến Calling Context, và nếu ở đó nó không tìm thấy nữa thì nó tiếp tục tìm ở Calling Context của Calling Context đó, Cứ lặp lại như thế cho đến khi gặp Global Execution Context, và nếu không gặp được variable cần tìm thì value được trả về cho biến đó là undefined. Để hiểu rõ chúng ta hãy theo dõi ví dụ trên. Nếu bạn đã biết về scope thì có thể bỏ quan phần này.

  1. Khai báo một variable có tên là val1 và gán value cho nó là `2.
  2. Dòng 2 đến dòng 5 khai báo một Function có tên là multiplyThis.
  3. Dòng 6 này khai báo một variable mới Global Execution Context.
  4. Từ bộ nhớ Global Execution Context này, nhận lấy value return của function multiplyThis và thực thi nó, truyền param6 cho function đó.
  5. Một function mới được gọi và thực thi thì đồng nghĩa sẽ có Function Execution Context mới được tạo ra.
  6. Trong Function Execution Context này, variable được khai báo là n và được gán value6.
  7. Dòng 3, đồng thời trong Function Execution Context này, khai báo một variable có tên là ret.
  8. Trên dòng 3 tiếp tục thực hiện phép nhân với hai toán tử là value của variable nval1, tìm variableFunction Execution Context, nó được gắn ở bước 6value của nó là 6, tìm đến variable val1 trong Function Execution Context và tất nhiên là không tìm thấy, nó tìm tiếp đến Calling Context để hỏi thăm,Calling Context lúc này là Global Execution Context, tìm variable trong đó, val1 đã được defined trong bước 1value của nó là 2.
  9. Lại tiếp tục dòng 3, variable ret giờ chắc chắn là có value bằng 12 rồi phải không các bạn.
  10. Return variable ret, đồng thời Function Execution Context sẽ bị hủy, variable retn sẽ bị xóa bỏ ra khỏi bộ nhớ, variable sẽ không bị xóa bỏ vì nó nằm ở Global Execution Context.
  11. Quay tiếp đến dòng 6, trong Calling Context, variable được gán value12.
  12. Cuối cùng trên dòng 7, value của multiplied sẽ được log ra màn hình.

Trong ví dụ trên, chúng ta cần nhớ rằng một Fnction ngoài việc nó có thể truy cập đến những variable của nó thì còn có thể truy cập đến những variable được defined trong Calling Context, người ta thường gọi nó là Scope.

A Function return Function

Trong ví dụ đầu tiên, các bạn có thể thấy Function return về một con số, chúng ta nên nhớ rằng Function có thể return về bất cứ thứ gì, kể cả là Function.

 1: let val = 7
 2: function createAdder() {
 3:   function addNumbers(a, b) {
 4:     let ret = a + b
 5:     return ret
 6:   }
 7:   return addNumbers
 8: }
 9: let adder = createAdder()
10: let sum = adder(val, 8)
11: console.log('example of function returning a function: ', sum)
  1. Dòng 1 chúng ta khai báo một variable và gán value nó là 7, Global Execution Context.
  2. Dòng 2, cũng trong Global Execution Context, chúng ta khai báo một Function mới có tên là createAdder, và gán value cho nó là defined của một Function, từ dòng 3 đến dòng 7 là mô tả Function này sẽ làm gì.
  3. Dòng 9, chúng ta khai báo một variable mới adder, Creation Phase của Global Execution Context thì nó sẽ có valueundefined
  4. Vẫn ở dòng 9, chúng ta thấy dấu ngoặc (), có nghĩa là chúng ta sẽ thực thi Function, tìm trong bộ nhớ Global Execution Context chúng ta thấy createAdder và thực thi nó.
  5. Thực thi một Function và giờ chúng ta đang ở dòng 2, một Function Execution Context được tạo ra, chúng ta có thể thêm những variable cục bộ trong Execution Context mới này, JavaScript thêm Execution Context vào Stack, do Function này không có param đầu vào nên chúng ta nhảy đến phần thân Function luôn.
  6. Vẫn trong dòng 3 đến dòng 6, chúng ta có một Function mới được khai báo, chúng ta tạo một function addNumbers trong Function Execution Context này, điều này rất quan trọng vì addNumbers chỉ tồn tại trong Function Execution Context này.
  7. Bây giờ chúng ta đang ở dòng 7, value returnFunction addNumbers, JavaScript tìm Function có tên là addNumbers, và sau đó bất cứ thứ gì nằm trong dòng 4 đến dòng 5 đều bị xóa bỏ khỏi Call Stack.
  8. Phía trên return, Function Execution Context đã bị huỷ. addNumbers cũng không còn nữa. Tuy nhiên definition của Function đó vẫn có tồn tại, nó được return sau khi gọi thực thi Function createdAdder và đã được gán cho variable adder. Đó là variable đã được tạo tại bước 3.
  9. Bắt đầu đến dòng 10. Chúng ta định nghĩa một variable mới tên là sumtrong **Global Execution Context** với **value** ban đầu làundefined`.
  10. Kế tiếp chúng ta cần thực thi Function, Đó là Function đã được defined tên là adder. Tìm nó trong Global Execution Context, chắc chắn chúng ta sẽ tìm thấy nó. Nó là Function có 2 param.
  11. Nhận 2 param truyền vào và gọi Function để thực thi. Đầu tiên là variable val, cái này đã được defined trong bước 1, có value 7 và tham số truyền vào thứ hai là số 8.
  12. Bây giờ chúng ta thực thi Function, Function được defined trong dòng 3 đến 5, một cái Function Execution Context được tạo ra, bên trong Function Execution Context có hai variable được tạo ra là ab, chúng được gán tương ứng value78.
  13. Dòng 4, một variable mới được khai báo và đặt tên là ret. Đó được khai báo báo trong Function Execution Context.
  14. Dòng 4, thực hiện phép tính cộng, với value của ab kết quả được gán cho cho variable ret.
  15. variable ret được return từ Function. Function Execution Context bị huỷ, nó bị xoá khỏi Call Stack, các variable a, bret cũng không còn nữa.
  16. Gán value return cho variable sum được khai báo ở dòng 9.
  17. Dòng 11 này in ra value của sum.

Như dự đoán, kết quả Log ra sẽ là 15, có vài điều cầu lưu ý ở đây :

  • Defined Function có thể lưu vào một variable.
  • Function đó có thể không xuất hiện trong chương trình cho đến khi được gọi đến.
  • Mỗi lần Function được gọi, một Function Execution Context ( tạm thời ) sẽ được tạo ra, Execution Context sẽ tan biến đến khi Function kết thúc.
  • Một Function kết thúc khi nó được return hoặc closing bracket }.

Cuối cùng là Closure

1: function createCounter() {
2:   let counter = 0
3:   const myFunction = function() {
4:     counter = counter + 1
5:     return counter
6:   }
7:   return myFunction
8: }
9: const increment = createCounter()
10: const c1 = increment()
11: const c2 = increment()
12: const c3 = increment()
13: console.log('example increment', c1, c2, c3)

Hãy chạy đoạn code trên và xem kết quả thử nhé,

  1. Dòng đầu tiên này chúng ta tạo một Function createCounter trong Global Execution Context.
  2. Dòng 9 chúng ta khai báo một variable có tên là increment.
  3. Dòng 9 tiếp tục chúng ta gán kết quả return của Function createCounter cho variable này.
  4. Dòng 1 đến dòng 8 gọi đến Function createCounter, đồng thời Function này sẽ thực thi và tất nhiên Function Execution Context sẽ được khởi tạo.
  5. Dòng 2 trong Function Execution Context của createCounter tạo một variable có tên là counter và gán value0.
  6. Dòng 3 khai báo một variable có tên là myFunctionvalue của nó là definition một Function, và myFunction được dùng trong Function Execution Context
  7. Dòng 7 này return về value của myFunction, đồng thời countermyFunction sẽ không còn tồn tại, chương trình sẽ return value cho Calling Context.
  8. Dòng 9 cũng từ Calling Context này, chính là **Global Execution Context, value return của function createCounter đã được gán vào increment, variable increment giờ là một Function Definition, Function Definitionvaluevalue được trả về từ Function createCounter, không còn Function nào giờ có tên là myFunction nữa, nhưng definition nó vẫn còn, bên trong Global Execution Context nó được gọi là increment.
  9. Dòng 10, Khai báo một variable có tên là c1.
  10. Dòng 10, tìm kiếm một variable có tên là increment, nó là một Function, gọi nó. Nó là một Function đã được return trước đó, Function đó được định nghĩa từ dòng 4 đến dòng 5.
  11. Dòng 4, counter = counter + 1, nó sẽ tìm variableFunction Execution Context myFunction không có, Lexical Scope nó sẽ tìm tiếp Function Execution Context myFunction, không có nó lại tiếp tục tìm ở Global Execution Context, không có variable nào có tên là counter nên JavaScript sẽ có phép toán sau đây counter = undefined + 1, khai báo một variable mới và gán value1, undefined được xem là 0.
  12. Dòng 5 chúng ta return về value của counter, chúng ta đồng thời sẽ hủy Function Execution Context myFunction này luôn, bao gồm cả counter.
  13. Về lại dòng 10. Trảvalue 1 và gán cho variable c1.
  14. Dòng 11 này c2 cũng lặp lại như c1 vậy, value nó là 1.
  15. Dòng 12 này c3 cũng lặp lại như c1 vậy, value nó là 1.
  16. Dòng 13, chúng ta log value của c1, c2, c3 ra.

Mình cũng khá bất ngờ là kết quả nó không giống như mình nghĩ vậy, thay vào đó kết quả lần lượt là 1,2,3, bằng cách nào đó increment nhớ được value của variable counter.

variable counter có phải Global Execution Context nên không bị xóa, Thử console.log(counter) xem sao và bạn sẽ nhận được là undefined. Vậy thì không phải rồi.

Vậy là nó sẽ có một cơ chế nào đó, Đó là Closure, đây là cách nó hoạt động, khi bạn khai báo một Function và gán cho nó vào một variable, bạn sẽ lưu nó là một Fuction Definition, cái này chính là Clourse.

Closure chứa tất cả các biến mà trong phạm vi (scope) tại thời điểm tạo function đó.

Vì vậy cách giải thích ở trên sai hoàn toàn, hãy thử lại, nhưng lần này thì đúng.

1: function createCounter() {
2:   let counter = 0
3:   const myFunction = function() {
4:     counter = counter + 1
5:     return counter
6:   }
7:   return myFunction
8: }
9: const increment = createCounter()
10: const c1 = increment()
11: const c2 = increment()
12: const c3 = increment()
13: console.log('example increment', c1, c2, c3)
  1. Dòng đầu tiên này chúng ta tạo một Function createCounter trong Global Execution Context.
  2. Dòng 9 chúng ta khai báo một variable có tên là increment.
  3. Dòng 9 tiếp tục chúng ta gán kết quả return của Function createCounter cho variable này.
  4. Dòng 1 đến dòng 8 gọi đến Function createCounter, đồng thời Function này sẽ thực thi và tất nhiên Function Execution Context sẽ được khởi tạo.
  5. Dòng 2 trong Function Execution Context của createCounter tạo một variable có tên là counter và gán value0.
  6. Dòng 36 khai báo một variable có tên là myFunction, nó được khai báo trong Function Execution Context, value của myFunction là một definition function khác, đã defined từ dòng 4 đến dòng 5, bây giờ chúng ta cũng tạo một Clourse và bao gồm nó như một thành phần của Function Definition, Clourse chứa tất cả các variable trong scope, trong trường hợp này variablevalue0.
  7. Dòng 7, return value của variable myFunction, **Function Execution Context** bị xóa,myFunction counter` không còn tồn tại, chương trình sẽ trả về value cho Calling Context, Vậy chúng đang return về definition functionClourse của nó.
  8. Dòng 9 Calling Context này chính là Global Execution Context, value return của createCounter được gán cho increment, variable increment bây giờ chứa một definition function ( và Clourse), cái function definition được tạo ra bởi createCounter, không còn tồn tại Function nào tên là myFunction nữa, nhưng definition thì giống nhau. Trong Global Execution Context, nó được gọi là increment.
  9. Dòng 10, Khai báo một variable có tên là c1.
  10. Dòng 10, tìm kiếm một variable có tên là increment, nó là một Function, gọi nó. Nó là một Function đã được return trước đó, Function đó được định nghĩa từ dòng 4 đến dòng 5.
  11. Dòng 4, counter = counter + 1, chúng ta tìm variable counter, Trước khi chúng ta tìm trong Function Execution ContextGlobal Execution Context hãy tìm trong Clourse, chúng ta có Clourse chứa variable có tên là counter, nó có value0, sau đó thực hiện phép tính và kết quả là 1, sau đó nó lại được lưu trong Clourse, Clourse lại chứa variablevalue1.
  12. Dòng 5 chúng ta return về value của counter, chúng ta đồng thời sẽ hủy Function Execution Context myFunction này luôn, bao gồm cả counter.
  13. Về lại dòng 10. Trảvalue 1 và gán cho variable c1.
  14. Dòng 11 chúng ta lặp lại như bước 11, trong lúc tìm trong Clourse thì sẽ thấy variable countervalue1, giá trị nó sẽ tăng thêm một đơn vị là 2 và được lưu lại vào Clourse của Function incrementvariable c2 này sẽ có value là 2.
  15. Dòng 12 này c3 cũng lặp lại như c1 vậy, value nó là 3.
  16. Dòng 13, chúng ta log value của c1, c2, c3 ra.

Khi một Function được khai báo thì sẽ bao gồm cả ClourseFunction Definition của nó.

Closure là một tập tất cả các variable trong Scope tại thời điểm tạo ra Function

Bạn có thể hỏi, có phải bất kỳ Function nào cũng có Clourse, kể cả những Function trong Global Scope ? câu trả lời có Yes. Các Function được tạo trong Global Scope cũng tạo ra một Clourse. Nhưng lúc những Function này được tạo trong Global Scope, thì nó có thể access đến tất cả các variable trong Global Scope. Và khái niệm Closure thật sự không còn liên quan nữa.

Khi value return của một Function là một Function, thì lúc đó chúng ta sẽ nhìn thấy khái niệm Closure rõ nhất. Function mà nó trả về có thể access đến những variable mà không có trong Global Scope, nhưng lại có ở trong Closure của Function đó.

Kết bài

Vậy là mình và các bạn đã tìm hiểu về Clourse, nếu có đóng góp hoặc góp ý gì xin bình luận phía dưới, mình xin cảm ơn.

Nguồn dịch

https://medium.com/dailyjs/i-never-understood-javascript-closures-9663703368e8


All rights reserved

Viblo
Hãy đăng ký một tài khoản Viblo để nhận được nhiều bài viết thú vị hơn.
Đăng kí