+1

JavaScript Environment, Lexical Scope and Closures

Environment

Trong thực tế, khi ta xây dựng một nhà máy điện hạt nhân ở. Những gì xảy ra trong nhà máy sẽ được tách biệt với thế giới bên ngoài để đảm bảo an toàn. Nói cách khác, nhà máy điện hạt nhân được xây dựng trên một môi trường riêng, một thế giới thu nhỏ nằm trong thế giới to lớn của chúng ra.

Trong lập trình cũng tương tự, khi ta khai báo một biến, function, vòng lặp, toán tử điều kiện, block code, thì chúng đều nằm trong môt môi trường, và được gọi là environment, môi trường nằm ngoài các môi trường khác đó là global environment.

Hằng số age, hàm multiplier và biến result tất cả nằm trong môi trường toàn cầu(global environment) nên nó có phạm vi toàn cầu và được gọi là global scope.. Scop có nghĩa là vùng mà các thành phần sẵn sàng để sử dụng.

Hằng số x được khai báo trong hàm multiplier Khi đó x nằm trong một block code, và nó không được gọi là global scope nữa mà là một local scope

Hàm multiplier có một thành phần khác là tham số num, nó khôn được khai báo trong block code, nhưng nó vẫn hoạt động như một local scope.

Những local scope chỉ hoạt động được trong block code mà nó được định nhĩa.

console.log được gọi trong môi trường toàn cầu, nhưng biến x lại được khai báo trong môi trường cục bộ, nên ví dụ trên sẽ gây ra lỗi Reference Error.

Chúng ta có thể khai báo biến x trong môi trường toàn cầu

Bây giờ khi console.log ta có giá trị 55, nhưng biến x bên trong hàm multiplier vẫn hoạt động. Ta có 2 biến x nhưng chúng không liên quan đến nhau vì chúng nằm ở 2 môi trường khác nhau mặc dù có cùng tên.

Bất kỳ đoạn code nào được nằm trong cặp dấu{} đều được gọi là một block code. Một ví dụ với toán tử if

Biến local sẽ không tồn tại khi ta console.log ở môi trường toàn cục, mà chỉ tồn tại trong môi trường cục bộ bên trong block code của if mà thôi.

Vòng lặp while, for cũng tương tự.

Biến toàn cục a đã được thay đổi giá trị sau khi hàm changer được gọi. Trước khi hàm được gọi, a vẫn có giá trị là 0, vì hàm sẽ không chạy khi khai báo, mà chạy khi được gọi, nên sau khi gọi hàm, a mới có giá trị 1.

Mặc dù trên lý thuyết ta có thể đặt toàn bộ các biến ở môi trường toàn cầu local scope mà không cần phải quan tâm đến scope nữa.

Nhưng đó là cách làm tệ ( terrible practice) và có thể làm code của bạn bị xung đột và gây ra bug bất cứ lúc nào. Cho nên best practice là hay giữ các biến ở phạm vi cục bộ, nơi mà chỉ ở đó mới cần đến biến đó.

Lexical scope

Xét ví dụ sau

Hàm multiplier trả về phép nhân giữa ab, nhưng a được khai báo cả bên trong và bên ngoài hàm, b thì lại chỉ được khai báo bên ngoài. Khi chương trình xử lý hàm multiplier, nó sẽ ưu tiên tìm các biến local scope, nếu không có sẽ tìm ra global scope.

Trong trường hợp này, chương trình tìm ab ở bên trong hàm, nó tìm thấy a bên tron với giá trị 5, b thì không thấy nên chương trình tìm sang global scope và thấy b với giá trị 10. Và vậy kết quả của hàm multiplier50.

Việc tìm kiếm các biến theo thứ tự đó được gọi là lexical scope. Phạm vi của bất kỳ thành phần nào được xác định bời nơi nó được khai báo. Và các block code lồng nhau có thể được truy cập đến các scope bên ngoai chúng.

Closures

Xét ví dụ đưới đây

Hàm createPrinter chứa biến name và hàm printName bên trong. Cả 2 đều nằm trong local scope.

Hàm printName có thể xử dụng biến name vì chúng nằm cùng một scope.

Hàm createPrinter return hàm printName. Nên nhớ rằng một function chỉ mô tả cách hoạt động của một chức năng nào đó. Do đó chúng ta có thể returun một function, như là return một số hoặc một chuỗi mà chúng ta vẫn thường làm.

Ở bên ngoài ta khai báo myPrinter và gán giá trị bằng kết quả trả về của hàm createPrinter. Nó trả về hàm printName, gọi hàm này ta được kết quả King như đã khai báo trong hàm createPrinter.

Có một điều kì lạ là khi hàm createPrinter được gọi và chạy xong, như ta đã biết thì những gì bên trong nó sẽ được giải phóng, và biến mất.

Nhưng thực tế nó đã return một hàm khác, và bằng cách nào đó, nó đã nhớ được giá trị name = King mặc dù scope nơi nó được khai báo đã không còn.

Hàm được trả về từ hàm createPrinter được gọi là một closure. Closure là sự kết hợp của hàm và môi trường nơi nó được khai báo. Closure tự chứa một số thông tin từ scope nơi mà nó được khai báo.

Điều này như là một thủ thuật, trong javascript nếu được sử dụng một cách không ngoan, nó có thể làm code dễ đọc và sạch sẽ hơn. Việc có thể return một hàm như là một giá trị đã mở ra nhiều tùy chọn và làm cho javascript trở lên linh hoạt hơn.

Tham khảo

Được dịch từ bài viết cùng tên của tác giả Mahendra Choudhary https://medium.com/@jakepintu/javascript-environment-lexical-scope-and-closures-9c8dfaeff73d


All rights reserved

Viblo
Hãy đăng ký một tài khoản Viblo để nhận được nhiều bài viết thú vị hơn.
Đăng kí